Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016

Một Vài Tiết Lộ Về Sự Thật Của Hai Cuốn Nhật Ký: Đặng Thùy Trâm Và Nguyễn Văn Thạc

Bài viết của Học giả Thái Doãn Hiểu:
NHỮNG PHÙ THUỶ VĂN NÔ
Nguyễn Văn Thạc là một thanh niên học sinh có số điểm đủ để đi du học nước ngoài. Nhưng gia đình lý lịch xấu, chính quyền địa phương bắt anh vào lính, đẩy vào chiến trường B. Thạc có thể trở thành anh hùng trên tuyến đầu chống Mỹ được không? - Không, khó có thể. Nhưng ai từ Nhật ký của liệt sỹ Thạc đã phù phép cho anh trở thành anh hùng, thành tấm gương điển hình phát động thanh niên toàn quốc học tập?

Bác sỹ Đặng Thùy Trâm đi chiến trường bị người yêu phụ bạc, cô phá phách luôn đời mình bằng cách làm vợ tháng, rồi vợ năm cho Bí thư huyện ủy Tam Kỳ để anh hai lo cho sinh mệnh chính trị tương lai cho em út.
Khi sống ở nước ngoài, tôi có dịp tiếp xúc với văn bản gốc Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Nó rậm rạp lắm, phơi bày những bí mật bản năng thật thà của con người. Nhờ sự cắt gọt tỉa tót của ông phù thủy biên tập mà nó trở thành tác phẩm văn học hoàn hảo có lợi cho nhân vật và việc tuyên truyền chính trị. Văn của người biên tập chiếm đến 1/3. Tính trung thực của thể ký bị xâm hại đến nghiêm trọng, không đáng tin cậy.
Hay ho thật đấy! Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm đã từng bị lừa (trong đó có tôi và chúng ta) xả thân vào cuộc nội chiến cốt nhục tương tàn đẫm máu, để bảo vệ một ý thức hệ nhảm nhí. Nay, người ta lại còn dựng lại hai hồn ma này dậy để tiếp tục lừa con cháu chúng ta lần nữa! Nên chăng?

Nếu bất cứ quyển nhật ký nào của cây viêt không chuyên, được bàn tay phù thủy của bọn văn nô phù phép như nhật ký Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm rồi quảng cáo um xùm lên để trở thành một kiệt tác văn học bán hót thì nền văn học hiện đại Việt Nam đã đến thời kỳ mạt vận.
Bài viết được đăng tải ngyên văn theo bài chia sẻ trên trang facebook cá nhân của tác giả Do Hoang, nick: https://www.facebook.com/profile.php?id=100004356009698&fref=nf

VƯƠNG TRỌNG DỊCH HỎNG CHINH PHỤ NGÂM GÂY TÁC HẠI LÂU DÀI CHO NHÂN DÂN VÀ HỌC SINH, SINH VIÊN

Giới thiệu bài viết của tác giả Do Hoang, nick fb ở dưới, về việc dịch tác phẩm Chinh phụ ngâm. Bài được dẫn lại theo nguyên bản của tác giả chia sẻ trên trang facebook cá nhân.
Do Hoang
VƯƠNG TRỌNG DỊCH HỎNG CHINH PHỤ NGÂM GÂY TÁC HẠI LÂU DÀI CHO NHÂN DÂN VÀ HỌC SINH, SINH VIÊN
Đỗ Hoàng
Vương Trọng dịch Chinh phụ ngâm ra thơ lục bát in trên báo mạng (1) cách đây mấy năm, rồi tiếp những bài phê bình của ông về bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm (hay Phan Huy Ích).
Tôi đọc bản dịch nghĩa, dịch thơ (lục bát) Chinh phụ ngâm của ông (ông nói có tham khảo bản dịch nghĩa của cụ Vũ Huy Động), nên tôi phải lên tiếng phê bình về chất lượng bản dịch của Vương Trọng để cho bạn đọc biết!.
Trước hết, Vương Trọng và cả cụ Vũ Huy Động đa phần đã dịch bỏ chữ, bỏ ý hoặc thêm chữ, thêm ý chủ quan của mình, nhiều chỗ sai nghĩa một cách trầm trọng bản Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn. Rất nhiều chữ dịch sai, cụm từ dịch sai, cả câu dịch sai. Dịch nghĩa không ra dịch nghĩa, dịch thơ không ra dịch thơ! Đây là điều rất tối kỵ trong dịch thuật. Về dịch thơ có thể bỏ ý nhỏ, nhưng ý chính luôn luôn phải giữ, không thể “tác dịch” như một vài dịch giả hiện nay. Điều này, người đọc không còn hiểu đúng nguyên bản, càng phản tác dụng khi người dịch thơ rất kém.
Nguyên văn:
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
烽 火 影 照 甘 泉 雲
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Nghĩa là:
Tiếng trống trận nơi Trường Thành đánh dồn dập làm náo động cả vầng trăng
Ngọn lửa báo hiệu có giặc ở chốn Cam Tuyền cháy bỏng đến tận tầng mây.
Hai câu thơ hay quá không cần trình độ Hán ngữ, người Việt ai cũng cảm được và hiểu được!
Vương Trọng dịch thơ:
Trăng rung nhịp trống Trường Thành
Cam Tuyền lửa hắt rạng hình ngàn mây.
Câu một dịch sai nghĩa hoàn toàn. Sao là trăng rung nhịp trống? 鼓 鼙 聲 動 - Cổ bề thanh động là tiếng trống trận đánh dồn dập liên hồi kỳ trận đến mức làm náo động cả vầng trăng. Trống trận chứ không phải tiếng trống thường! Thế mới là không khí chiến tranh tang thương!
Về thơ, hai câu dịch này quá dở, thô thiển, vần lại không chuẩn, ép vần. Về nghĩa ý, tư tưởng câu đầu hỏng.
Tiếp:
九 重 按 劍 起 當 席
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Nghĩa là: Đương khi ấy nghe tin, nhà vua nổi giận rời chiếu ngồi, vỗ gươm đứng dậy
Tức thì, nửa đêm truyền hịch chuyển nhanh như bay đến các tướng quân
Ở đây xin nói thêm chữ : Trùng (重).
Chữ “Trùng” âm Hán - Việt còn đọc là “Trọng”.
Đọc “Trùng: thì có 2 nghĩa: 1- Trùng, Lặp lại (cửu trùng – nơi vua ở, vua, trùng cửu, phúc bất trùng lai, trùng trùng điệp điệp, trùng tang, trùng phùng, trùng dương… 2 - Lần (Chín lần “cửu trùng”, tám lần “bát trùng”, hai lần “nhị trùng”…)
Đọc “Trọng” thì có nhiều nghĩa: 1 - quý trọng, trọng thị, kính trọng, quan trọng…2 – nặng nhẹ: nhất bên trọng, nhất bên khinh, trọng án… 3 – bệnh tật: trọng bệnh..4 - chuộng : trọng nông, ức thương…5 - công bằng: trọng tài…
Nếu chữ 重 - Trùng hiểu theo nghĩa là “吝 - lần – chữ Nôm” thì đúng là “chín lần gươm báu trao tay” như có bản chép Đoàn Thị Điểm dịch thơ Nôm theo nghĩa này. Nhiều bản dịch đề “chín tầng” nhưng không chép chữ Nôm là “層 – tầng” mà vẫn chép chữ Nôm “lần - 吝” như:
𠃩 “吝” 鎌宝𢶢𢬣
Chín tầng gươm báu trao tay,
(Website: Wikisource, tiếng Việt - https://vi.wikisource.org và Từ điển Wikipedia tiếng Việt)
Còn chữ : 席 - Tịch: chiếc chiếu, ngồi.
Ngoài nghĩa “chiếu:, “ngồi” còn chỉ chức vụ người đang giữ như: 主 席 (Chủ tịch – Người đứng đầu trong một tổ chức đơn vị) , 刑 席 (Hình tịch – Người coi về hình danh). Nên nghĩa “lần” thì:
𠃩吝鎌宝𢶢𢬣 . (chữ Nôm)
姅 虧傳檄定𣈗出征
(Chín lần gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh)
Là dịch thơ hay mà có bám sát nghĩa.
Bởi vì “九 重 – cửu trùng – chữ Hán” và “𠃩 吝 - chín lần – chữ Nôm” vốn là số từ thuần túy!
Vương Trọng dịch nghĩa:
Nhà vua bỏ tiệc, chống kiếm đứng lên
Dịch thế là dịch nghĩa sai. Trong nguyên bản chả có từ nào chỉ yến tiệc. Dịch nghĩa thêm từ mới, bỏ từ trong nguyên bản (當 席 - đương tịch, 將 軍 – tướng quân) là dịch không tôn trọng văn bản và tác giả!
Nên dẫn đến dịch thơ :rất xoàng. Chữ “ngay” thêm vào cho hiệp vần là rất kém, không thơ chút nào:
“Vua chống kiếm đứng lên ngay
Nửa đêm khẩn cấp hịch bay lệnh truyền”
Câu thơ dịch như vè vẻ vè ve, nghe vè lá lốt (!)!
Tiếp:
清 平 三 百 年 天 下
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
從 此 戎 衣 屬 武 臣
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Nghĩa là:
Ba trăm năm thiên hạ được thái bình
Nhưng từ nay võ quan lại phải mặc áo lính ra trận
Vương Trọng dịch thơ:
“Áo nhung quan võ khoác lên
Hết ba thế kỷ ấm êm thanh bình”.
Câu thơ dịch vừa sơ sài, vừa dở, vừa kém, Vương Trọng dịch rất tùy tiện, đảo ý câu trên xuống câu dưới, ý câu dưới lên câu trên! Không có một tí gì sáng tạo từ mới. Bê nguyên xi từ cũ của Đoàn Thị Điểm “ 襖 戎 (chữ Nôm) - áo nhung -” vào câu thơ dịch. Mà từ này cũng không Việt hóa lắm. Nó vừa Nôm vừa Hán.
戎 - Nhung : đồ binh (cung, nỏ, gióa, mác, kích – ngũ nhung).
“Đẩy xe vâng chỉ đặc sai
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung”.
“Đổng nhung” là trông coi, đốc suất việc quân
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du))
戎 衣 :
Nhung y là trang phục của binh lính nói chung. Dùng từ “áo nhung” thời bà Điểm còn được chỉ áo giáp, quân phục người ra trận,, thời này nói áo nhung thi phải nói quần nhung, tất nhung, váy nhung, mũ nhung, xi líp nhung, xu chiêng nhung, coóc - sê nhung, vớ nhung (cho bộ đội nữ)… thì nó ra làm sao? Bê những cái thời trước không hợp thời nay, mà không chịu sửa chữa. Câu thơ dịch thời nay chẳng Việt hóa tí nào, vẫn giữ nguyên âm Hán Việt chưa được Việt hóa bao nhiêu của những ba thế kỷ!:
Dịch thơ thế này là rất dở:
天 地 風 塵
Thiên địa phong trần
紅 顏 多 屯
Hồng nhan đa truân
“Đất trời gió bụi nổi lên
Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng”
(Vương Trọng)
‘Thiên địa phong trần – Đất trời gió buị” là quá đủ ý, quá hay rồi. “Đất trời gió bụi nổi lên” là vẽ rắn thêm chân. Phải như Đoàn Thị Điểm là vào cái “Thuở” câu thơ dịch mới có thần:
𨤧𡗶坦常欺逾𡏧 (chữ Nôm)
客𦟐紅𡗉餒迍邅
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”
“Hồng nhan”, “truân chuyên” là những từ Hán. Đoàn Thị Điểm còn Việt hóa – “Khách má hồng” còn Vương Trọng thì vẫn y sỳ giữ âm Hán “Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng”. Câu thơ dịch quá nặng nề Hán tự, không một tí sáng trong tiếng Việt. Chữ nghĩa của Vương Trọng hình như quá ít hay sao? Thiếu gì chữ Việt:
“Đất trời gió bụi đảo điên
Má hường trắc trở, tơ duyên nổi chìm!.”
Đỗ Hoàng ví dụ thế!
Tiếp:
丈 夫 千 里 志 馬 革
Trượng phu thiên lý chí mã cách
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Nghĩa là:
Người anh hùng với chí “mã cách” chiến đấu ngoài nghìn dặm dẫu có chết lấy da ngựa bọc thây đem chôn
Và tính mệnh nặng như Thái Sơn, cái chết nặng như Thái Sơn nhưng khi hất xuống coi nhẹ tựa lông chim hồng!
Vương Trọng dịch nghĩa:
Ngàm dặm chí trai da ngựa bọc
Tay nhấc Thái Sơn nhẹ như lông hồng.
Dịch nghĩa mà như dịch thơ. Chí trai là chí “mã cách” . Mã cách là lấy da ngựa bọc thây chôn tử sỹ. “Mã cách” là điển tích từ câu nói của Mã Viện đời trước, làm trai chiến đấu ngoài chiến trường nếu chết bọc da ngựa đem chôn, chứ không ru rú chết già xó giường. Không nên dịch Nôm “chí trai da ngựa bọc”. “馬 革 - Mã cách” nguyên là danh từ chuyển sang nghĩa tính từ hoặc trạng từ bổ nghĩa tùy theo văn cảnh sử dụng.
Vượng Trọng hiểu sai nên dịch ra thơ thì phá hủy thơ Đoàn Thị Điểm hoàn toàn:
“Lấy da ngựa bọc chí trai
Thái Sơn tay nhấc nhẹ thay lông hồng”
“Lấy da ngựa bọc chí trai”, nó vừa sai nghĩa, vừa nghe bẩn thỉu, thô lậu, mất vệ sinh thế nào, như cái thời hiện đại:
“ Lấy ca pốt bọc cặc trai!
Tha hồ đụ chắc (*) có ai phê bình”. (*) (Đéo nhau)
Còn dịch “Thái Sơn tay nhấc nhẹ như lông hồng!” không ăn nhập gì với câu thơ của Đặng Trần Côn. Dịch nghĩa sai, dịch thơ hỏng. “Trịch” - là đặt, gieo, ném, quăng, hất, để, giằn… Sao lại dịch là “tay nhấc”?... Xin xem thêm (**)
Vương Trọng dịch nghĩa, dịch thơ sai quá nhiều như thế, mà dịch thơ rất yếu, câu thơ lục bát lỗi vần, ép vần nhan nhản, hồn thơ nhạt nhẽo, sơ sài như nói vo, thử hỏi còn gì Chinh Phụ ngâm!
Dẫn chứng thêm: - Vương Trọng không hiểu thấu Chinh phụ ngâm, nên dịch sai nghĩa, từ đó dịch thơ hỏng. Chất lượng bản dịch nghĩa, dịch thơ rất kém cả về ý lẫn lời:
妾 心 隨 君 似 明 月
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
君 心 萬 里 千 山 箭
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
君 穿 壯 服 紅 如 霞
Quân xuyên trang phục hồng như hà
君 騎 驍 馬 白 如 雪
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
Vương Trọng dịch thơ:
“Bước đi níu áo chẳng rời
Theo chàng lòng thiếp sáng ngời vầng trăng
Lòng chàng chiến trận dõi trông
Buông ly rượu tiễn gươm vung múa rền
Chỉ hang hổ giáo vung lên
Trông như Giới Tử bắt liền Lâu Lan
Như Mã Viện ở khe Man
Ngựa chàng tuyết trắng, áo chàng ráng pha”.
Chữ nghĩa rất kém. Hai chữ “vung” trong hai câu lục bát liền nhau là rất kỵ: “gươm vung múa rền”, “giáo vung lên”, “sáng ngời vầng trăng”, “lòng chàng chiến trận dõi trông”, lại còn múa rền, lại còn “Trông như Giới Tử bắt liền Lâu Lan. Như Mã Viện ở khe Man””
… 笑 向 蠻 溪 談 馬 援
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện (Phấn chấn hành quân theo lối đến Man Khê giết giặc luận bàn chuyện danh tướng Mã Viện, )
Vương Trọng dịch như trên, nghe sến, cải lương như khẩu hiệu của các gã thôn trưởng hô hào dân đen nộp thuế ruộng, thua vè mấy mụ nhà quê, thua xẩm mấy ông Mán miền núi!. Khí thơ quá tầm thường, nhạt nhẽo:
Đoàn Thị Điểm dịch:
“Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”
Bản dịch thơ tiếng Pháp:
Traduit en Français
par
Tuần Lý HUỲNH KHẮC DỤNG
…Mon cœur vous poursuit à l'instar de la lune
Tandis que votre esprit voguait vers le Thiên Sơn.
Lâchant le vin d'adieu et dégaînant de suite,
Vous pointâtes la lance vers l'antre des fauves.
Vous suivriez, dîtes-vous, l'exemple de Giới Tử
Pourchassant les Lâu Lan et, quand il s'agirait
D'écraser les Man Khê, ces hordes d'insoumis,
Vous utiliseriez les ruses de Phục Ba.
Votre cuirasse avait la pourpre des nuages
Et l'on eût dit de neige votre blanc coursier…
Đúng một bên là chim phượng hoàng nghìn sắc, một bên con cú chết trôi xù lông, xù cánh!
Rồi còn tiếp tục:
“Chàng đi nắng dãi mưa dồn
Thiếp thì về lại căn buồng đêm qua”
Nên chọn vần “ồn” cho lục bát đạt chuẩn vần “chính”, chứ vần “uồng” cũng chưa phải vần “thông” nói chi đến vần chinh!
“Chàng đi nắng dãi mưa dồn
Thiếp thì về chỗ công đồn đêm qua”
Từ câu thứ 1 đến câu thứ 417, Vương Trọng dịch thơ đã nhạt, dở, kém mà lại đều ép vần, lỗi vần, thất vận một cách trầm trọng. Ngày xưa viết chữ Nôm tiền nhân đọc, viết ép vận như : “đoàng - vàng”, “thành – hình”, “truyền – lên”, “ôi – ai”, “phòng – trình”, “trình – thanh”, , “trường – vàng”, “duyên – xem” còn tha thứ được, như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du cũng lỗi vận đến nghìn câu như thế. Nay tiếng Việt hiện đại dùng chữ La tinh ghi âm nên các nhà thơ Việt sáng tác thơ lục bát, song thất lục bát hoặc thơ truyền thống, Đường luật nên tuân thủ chặt chẽ vần điệu theo chữ La tinh mới thể hiện tài năng sử dụng tiếng Việt của mình.
Câu mở đầu bản dịch thơ lục bát Chinh phụ ngâm, Vương Trọng đã ép vận:
“Đất trời gió bụi nổi lên
Hồng nhan gánh chịu truân chuyên não nùng”
Phải:
Đất trời gió bui nổi lên
Mà hường gánh chịu truân chên não nùng”
Câu thứ 4 đến câu thứ 6 :
“Trần gian bao chuyện đau lòng ai sinh?
Trăng rung nhịp trống Trường Thành
Cam Tuyền lửa hắt rạng hình ngàn mây”
Nếu đổi “Trăng rung nhịp trống Trường Thình” thì vần điệu ba câu này chỉnh chu biết mấy!
Câu thứ 23 đến câu 27:
“Lấy da ngựa bọc chí trai
Tay nhấc Thái Sơn nhẹ thay lông hồng
Chiến chinh xa chốn khuê phòng
Gió ào cầu Vị, roi vung hành trình
Đầu cầu Vị nước thanh thanh…”
Câu 54, 55:
“Cờ đưa quân tiến mấy bề bóng loang
Trông mây thiếp biết xa chàng”…
Câu 77 đên câu 80:
Bạch thành Hán chiếm sớm nay
Còn vùng Thanh Hải sáng mai Hồ rình
Thấp cao Thanh Hải núi xanh
Suối trong trước núi hiện hình sau cây”…
Câu 99, 80:
“Trăng soi mộ cũ Kỳ Sơn
Bến Phì mộ gió mới than canh trường”…
Câu 103, 104:
“Chinh phụ khi đã lìa đời
Cậy ai tô mặt, cây ai gọi hồn”…
Câu 111, 112:
“Gió thu bãi cỏ từng quen
Tên vèo trước mặt, quan san trăng đầy”…
Câu 139,142:
Nay đào tàn tạ gió đông
Mai gìa nở với phù dung bờ này
Chàng hẹn thiếp đến Lũng Tây
Giữa trưa chẳng thấy bóng ai hút tầm”…
Câu 145, 146:
Chàng hẹn thiếp cầu Hán Dương
Hết ngày nào thấy bóng chàng chàng ơi”…
Quá nhiều lỗi, quá nhiều sai không kể xiêt!...
Câu 395, 399:
Ngang Phiêu Diêu khoản ghi công chiến trường
Ngàn năm bia đá bảng vàng
Vợ con ân hưởng đàng hoàng dài lâu
Thiếp và Tô Phụ khác nhau
Lạc Dương trai giỏi có đâu hơn chàng?”…
Câu 403
Vì chàng dâng chén rượu ngà tận tay
Vì chàng thiếp chải tóc mây
Vì chàng trang điểm mặt mày thêm duyên
Giở khăn lệ cũ chàng xem
Câu 408, 409:
“Thơ sầu chuyển tiếp thơ vui
Thơ ngâm rượu chuốc liên hồi cùng nhau”…
Nên sửa:
“Thơ sầu đổi lại thơ vui
Rượu ngon mới kể ngậm ngùi trước sau”…
Vừa chỉn chu vần điệu , vừa đúng nghĩa nguyên bản:
唱 不 唱 兮 紫 騮 篇
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
(拘 𢝙 𢬭 貝 拘 愁
𨢇 呵 共 計 著 𨍦 每 𠳒) - chữ Nôm
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
(Đoàn Thị Điểm dịch)
Bà Điểm dịch thời tiếng Việt chưa phát triển mấy mà vần điệu, ý từ thanh thoát bay bổng, vừa sát nguyên bản , vừa làm nguyên bản hay hơn nhiều; Vương Trọng dịch sau 300 năm, tiếng Việt phát triển đến mức cao chưa từng thầy khi la tinh hóa con chữ, thế mà ý tứ đã kém, sai xa nguyên bản, khi thơ tầm thường, vần điệu lại lỗi, sai trầm trọng. Thật uống công tôi đọc và viết bài phê bình!
Bản dịch nghĩa, dịch thơ Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn của Vương Trọng quá kém lại sai quá nhiều làm hỏng nguyên tác, bôi nhọ tiền nhân như thế này mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa làm “Tác phẩm văn học trong nhà trường” thì thật nguy hại cho dân chúng và học sinh, sinh viên vô cùng!
Kẻ phá hoại di tích văn hóa vật thể và phi vật thể đều cấu thành tội phạm. Vương Trọng dịch hỏng Chinh phụ ngâm, Đỗ Trung Lai (dịch phá hỏng Đường thi) đều phải vào vòng lao lý. Những kẻ phá hoại các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như hai ông là có tội lớn. Hai ông vì cuồng danh, vì ngộ nhận tài năng của mình mà gây ra tai họa lâu dài cho dân chúng và học sinh, sinh viên!
Hà Nội 2012
Đ – H
(*) In trên lethieunhon.com
(**) Tham khảo thơ Lý Bạch
李白
結襪子
燕南壯士吳門豪,
築中置鉛魚隱刀。
感君恩重許君命,
太山一擲輕鴻毛。
KẾT MIỆT TỬ
Yên nam tráng sĩ Ngô môn hào,
Trúc trung trí duyên ngư ẩn đao.
Cảm quân ân trọng hứa quân mệnh,
Thái sơn nhất trịch khinh hồng mao.
DỊCH NGHĨA
Tráng sĩ miền nam nước Yên và hào kiệt đất Ngô
Dấu dao cùn trong đàn trúc, dấu đao trong bụng cá
Cảm ơn vua nên đem tính mạng đền ơn
Gieo núi Thái Sơn nhẹ như lông chim hồng
"Kết miệt tử" là tên một điệu hát cổ, có nghĩa là người đan vớ, ngụ ý là người quyết chí báo ơn.
Trần Trọng San dịch thơ:
Ngô Môn có bậc anh hào,
Lòng đàn bụng cá giấu dao tung hoành.
Đền ơn vua, quyết dâng mình,
Một gieo núi Thái, nhẹ tênh lông hồng.
Khoi Tran Cảm ơn Nhà thơ- Nhà Phê bình Văn hoc Đỗ Hoàng đã chuyển cho TK bài viết khá hay- Khách quan, chính xác khoa học, thể hiện tư duy trí tuệ uyên thâm, sự tìm tòi khám phá công phu để có được bản dịch sát, đúng đặng nhắc nhở mọi dich giả với thơ Đường tiếp cận với Hán Nôm cần hết sức cẩn trọng. Chúc mừng Nhà thơ Đỗ Hoàng "một gương mặt mới mẽ của Viện Hán Nôm Học VN "

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2016

ĐỜI NÀO RAU MÁ TO BẰNG LÁ SEN

ối chà Thanh Hóa có tin
Bí thư tỉnh ủy chơi kinh thấy mồ
vợ già con lớn đuề huề
còn thuê gái trẻ đẻ hộ bé trai
gái đẹp nhờ có ô ai
đang là tạp vụ thành ngài bề trên
tự dưng em nó phát hên?
chung cư, biệt thự, đứng tên rất nhiều
được bí thư yêu rất chiều
phong em giám đốc thật liều nhất anh
họ Trịnh tên Chiến nổi danh
nuôi bao gái trẻ, kết bè dâm ô
quan tham nhũng nhiễu quá thô
lấy đâu tư cách, trình độ hỡi quan?

xứ Thanh đúng thật ngày tàn
bí thư đầu tỉnh, gương vàng dân soi!
quả thật nhân cách chói lọi
học trò cụ hói là Hồ Chí Minh
đạo đức, tư tưởng rất kinh
bao nhiêu hủ bại quan rinh về nhà
ban cho dân chúng thì là
sưu cao, thuế nặng, để mà hại dân
luật pháp quan cũng chẳng cần
thẳng tay đàn áp người nào chống quan
Thanh Hóa thời Trịnh Văn Chiến
đúng là phải thiến cái thằng dâm ô
Trương Quỳnh Anh - đứa nhí nhố
hết bồ lại bịch, thật là đáng khinh
vậy mà Thành Hóa tài tình
Bí thư nâng hết lên tỉnh làm quan.

dân ngoan, ừm phải dân ngoan
nên đảng nó phá tan hoang nước nhà
Thanh Hóa rất đáng ngợi ca
đi đầu cả nước, lộ ra thằng này
bí thư tỉnh ủy rất hay
ngang nhiên vợ bé, thẳng ngay với đời
quan ấy mà lại hợp thời
xây chính quyền tỉnh lấy lợi mà thôi
cứ thế quan bán hết rồi
chức bé chức lớn chỗ ngồi sạch trơn
mua bằng tiền, đổi bằng "ồn"
thằng khôn, con giỏi nghiền ngẫm mà đau!
dân thua, dân chỉ có thua
Trung ương Đảng Chiến nó mua mất rồi
nên Trọng bảo vệ Chiến thôi
mỗi dân là khổ, lầm than bao đời!
...
Thanh Hóa nổi tiếng câu ca
dân ước rau má to bằng lá đa
lá sen to quá Hóa ơi
ăn chơi với phá đường tàu nhỏ thôi
lá to quá, phát ghê trời
lỡ mai Chiến nó được mời thay Trọng
nước Việt Nam chỉ có hỏng
toàn đảng phát động học tổng bí thư
cứ vài vợ như chú Chiến
thì dân còn mong tiến hay là thôi
lý tưởng chủ nghĩa xã hội
khi cộng sản toàn lũ thối hết cả
mà dân còn theo làm gì?
để Hò sông Mã mất đi thật rồi!
...
Thanh Hóa dân làm cu li
cu chi tên Chiến rất hiền bí thư
nó tham và chẳng nhân từ
mua quan bán tước hủ hóa khắp nơi.
Thanh Hóa là Thanh Hóa ơi
đời nào rau má to bằng lá sen...???!!!!./.

N.X.P
21g47p, 06/10/2016.
Bangkok, Thailand.
Nhìn về Việt Nam.

NHỮNG CON THÚ HOANG TRONG BÀI XÔNÊ (SONNET)



Mười bốn dòng thơ như mười bốn con mãnh thú
Với dáng vẻ hiền lành chúng vờ say ngủ,
Biết bao kẻ mộng mơ đã vô tình sập bẫy,
Khi nhận ra thì đã bị mãnh thú bao vây.

Dấu vuốt, che nanh dưới lớp vỏ ngôn từ
Con mồi sa bẫy chúng mới bộc lộ bản chất giã thú,
Cả mười bốn con lao vào cắn xé, phanh thây,
Chỉ thoáng chốc thi sĩ chẳng còn đủ sức để vùng vẫy.

Đớn đau đến tột cùng mà không thể xin van
Giải thoát là ơn huệ để linh hồn rời bỏ thể xác,
Trí tuệ được khai mở, nhà thơ bước vào thế giới khác.

Bằng sức mạnh của niềm tin đã tìm ra chân lí
Bầy thú hoang quỳ gối quy hàng chàng thi sĩ,
Nhạc rộn ràng reo vang mừng nhà thơ khải hoàn!./.
(Vần: aabb – aabb – cdd – eec)

GIỚI THIỆU THỂ THƠ SONNET - XÔNÊ - HÌNH THỨC, BỐC CỤC, CÁCH GIEO VẦN, ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TƯ TƯỞNG... - MINH HỌA BẰNG TÁC PHẨM TỰ SÁNG TÁC

1. Đặc điểm của thể thơ Sonnet – Xônê:

Sonnet – Xônê tiếng Italia: soneto, có nghĩa là bài hát nhỏ. Tiếng Anh, tiếng Nga và hầu hết các thứ tiếng khác đều đọc là xônét, ở Việt Nam quen gọi theo tiếng Pháp là xônê; theo truyền thống, trong bài này chúng tôi để nguyên như vậy), với tư cách một thể thơ hoàn chỉnh xuất hiện vào thế kỉ thứ 13, người sáng tạo ra nó có lẽ là những nhà thơ Provence (Pháp) và được củng cố phát triển tới đỉnh cao nhất trong tác phẩm của các nhà thơ Italia vĩ đại thời Phục Hưng, là Ðăngtơ và Pêtrac. Nó là một thể thơ có niêm luật chặt chẽ cả về cấu trúc lẫn quy tắc gieo vần, và nhất thiết bao giờ cũng phải mười bốn câu.


Xônê cổ điển Italia được chia thành bốn khổ, hai khổ bốn câu và hai khổ ba câu, với hệ thống gieo vần như sau:

abba - abba - ccd - ede,
hoặc abab - abab - ccd - eed.

Ngoài ra còn có các cách phân bố vần như:

1) vần bằng phẳng: AA BB CC;

2) vần chéo: AB AB CDCD;

3) vần ôm: ABBA CDDC và

4) vần lặp (lặp lai ít nhất 3 lần: AAAB (LTP).

Trong khổ thứ nhất, mà ngay câu đầu tiên, tác giả phải trình bày chủ đề bài thơ, nghĩa là giới thiệu với người đọc những gì mình định nói, và chủ đề ấy sẽ được phát triển tiếp ở khổ thứ hai. Trong hai khổ ba câu còn lại, tác giả sẽ trình bày cách giải quyết vấn đề đã nêu ở hai khổ trên và những kết luận rút ra từ suy nghĩ của người viết.

Từ thế kỉ thứ 16, xônê bắt đầu lan sang các nước châu Âu khác, trong đó có Anh. Lúc đầu các nhà thơ Anh viết theo hình thức cổ điển Italia (nhiều bài đơn thuần chỉ là bản phỏng dịch các tác giả nước ngoài), nhưng dần dần họ tạo được cho mình một hình thức riêng, gọi là Xônê Anh, gồm ba khổ bốn câu (abab - cdcd - efef) và hai câu kết (gg). Sêcxpia đã viết các bài thơ xônê của mình theo cách phân khổ và gieo vần này, nên nó còn được gọi là thể thơ Xônê Sêcxpia.

Từ ngày ra đời đến nay, xônê đã trải qua nhiều thăng trầm trong sự phát triển và áp dụng thực tế vào sáng tác của nhiều nhà thơ đủ mọi thời đại và dân tộc. Ðã xuất hiện nhiều thay đổi, biến dạng trong kết cấu và hệ thống gieo vần. Thậm chí có nhà thơ còn viết xônê bằng thơ không vần, và từ rất nhiều các quy tắc nghiêm ngặt của xônê cổ điển, chỉ còn giữ lại vẻn vẹn một yếu tố hình thức là mười bốn câu trong một bài. Mặc dù bị gò bó và bị chi phối bởi những ràng buộc về hình thức và bố cục như vậy, qua thực tế sáng tác, xônê vẫn tỏ ra là một thể thơ có sức sống mãnh liệt, và cho đến nay, khi trong thơ và nghệ thuật nói chung đang có xu thế phá vỡ các khuôn mẫu cổ điển cũ để tìm những hình thức diễn đạt mới phù hợp với thời đại, nó vẫn được nhiều nhà thơ khắp nơi trên thế giới yêu thích, nhất là khi cần phải bộc lộ những khía cạnh trữ tình và triết lí trong suy nghĩ của người viết.

Cũng nên nói thêm là các nhà thơ xônê cổ điển còn xây dựng một hình thức thơ mới, gọi là Chùm xônê với những ràng buộc về hình thức còn chặt chẽ hơn, bao gồm mười lăm bài xônê Italia, câu đầu của bài sau phải là câu cuối của bài trước; và xônê cuối cùng, bài kết, gồm mười bốn câu đầu tiên của những bài còn lại theo thứ tự, trong khi xônê thứ mười bốn phải được bắt đầu bằng câu cuối và kết thúc bằng câu đầu của xônê thứ mười lăm! Ðây là một trong những hình thức thơ khó nhất, phức tạp và chặt chẽ nhất trong thơ có luật của châu Âu. Tuy thế, nhiều nhà thơ, kể cả các nhà thơ hiện đại, đã mạnh dạn viết và viết thành công thể thơ này.

2. Bài thơ: TÌNH ÁI CỦA MÙA ĐÔNG
                     (Sonnet – Xônê)

Đêm gió lạnh, sương dăng buốt giá
Tất cả tạo nên cái đặc trưng của mùa đông,
Những kẻ cô đơn càng thấm thía cái lạnh hơn,
Họ khát khao người tình như sưởi ấm phải có lửa.

Gió được tiếp thêm sức mạnh, càng lạnh lẽo về khuya
Nó cuốn lấy sương mà quất vào người đi đường,
Những thân hình run rẩy, bước đi như trốn chạy cái bóng,
Cái lạnh vây quanh, ai cũng muốn thật nhanh về nhà.

Như đôi tình nhân đang hân hoan mở cuộc ái ân
Sương nương theo gió, gieo lạnh khắp thế gian,
Mặt đất như bị đóng băng, giá rét tận hưởng lạc thú.

Qua cơn cuồng nộ, gió lắt lay, sương mỏng như hơi may
Không khí ấm dần, gió, sương tìm chốn ngủ,
Chúng chờ mùa đông mới khi mùa xuân đang đến đâu đây./.

(Hệ thống vần được gieo trong bài: ABBA – ABBA – CCD – EDE.)


Đây là thử nghiệm tôi viết cách nay 6,7 năm gì đó, nay nhân giới thiệu thể thơ thì dùng để minh họa. Có khiếm khuyết hoặc chưa được chuẩn thì mong các bạn lượng thứ và chỉ giáo thêm cho.
30/12/2014.
Tài liệu tham khảo và nguồn của các trích dẫn:

1) http://phebinhvanhoc.com.vn/bai-tho-nhung-con-meo-cua-baudelaire-phan-12/

2)http://www.thivien.net/William-Shakespeare/Sonnet/group-_2_KNqIhiUMk8s_AJgW7Nw

Những người quan tâm và am hiểu văn học thế giới đều biết: Phương Đông - Châu Á có Thơ Đường, còn Phương Tây - Châu Âu có sonnet - Xônê là hai thể thơ nổi tiếng và có sự ảnh hưởng, lan tỏa rộng rãi cũng như hàm chứa nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng, nhân văn. Nó đạt tới một giá trị biểu trưng, nghĩa là nhiều khi người ta dùng hai thể thơ này để đại diện, thay thế cho cả hai nền thi ca của hai châu lục. Hay diễn đạt khác đi là, khi nói tới thơ ca của hai châu lục này ở quá khứ cho tới hiện đại, đôi khi người ta chỉ cần đề cập tới Thơ Đường và Sonnet - Xônê là đủ.

Mong nhận được sự góp ý và bổ sung từ những ai quan tâm tới bài viết.


Ảnh
Ảnh
Scrapbook Photos
1 ảnh - Xem album

VỊNH CẢNH

Lá non đầu cành đà biếc xanh
Nụ Hồng khoe sắc, xòe từng cánh
Lục Bình tim tím trôi dập dềnh
Cánh sóng ánh màu vàng long lanh
Bến sông mờ mịt khói lam chiều
Phủ chàm dáng núi đẹp tựa tranh
Làng gần le lói ánh lửa đỏ
Sắc tía nền trời chuyển rất nhanh./.

 (Tập danh: Lá – nụ – lục bình – cánh sóng – bến sông – núi – làng – trời. Điểm sắc: Xanh – hồng – tím – vàng – lam – chàm – đỏ – tía)
ĐLTTĐ – TNBC – LCVC.
Ảnh (st) minh họa.


Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

LUYỆN THƠ (Thơ Đường luật tân thanh điệu)


Nét bút mềm mại tựa gió mây
Tạo hình, khắc ý thật là hay
Đừng tưởng quen tay sẽ làm được
Chí ấy rèn luyện cực lắm thay.

01/10/2014.

GIỚI THIỆU VỀ THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT TÂN THANH ĐIỆU

THƠ ĐƯỜNG LUẬT TÂN THANH ĐIỆU được tạo ra với mong muốn gìn giữ và phát huy một giá trị nhân văn cao đẹp của dân tộc. Vì sự phát triển của Tiếng Việt ngày càng giàu và đẹp. (https://plus.google.com/u/1/communities/107125242697842386078)


Điểm khác biệt của THƠ ĐƯỜNG LUẬT TÂN THANH ĐIỆU là: Tiếng trắc được thay thế bởi tiếng có âm vực cao: Không dấu (thanh ngang); Ngã; Sắc. Và tiếng bằng được thay thế bởi tiếng có âm vực thấp: Huyền; Hỏi; Nặng. Những luật lệ khác vẫn giữ nguyên.  Có thể xem đây là một thử nghiệm dùng âm vực thay bằng, trắc của thanh điệu trong sáng tác thơ Đường luật.

Cũng xin nói thêm, luật bằng, trắc của thơ Đường luật thực chất là để tạo nhạc tính, sự du dương, hài hòa âm sắc, trầm bổng, luyến láy cho dòng thơ, bài thơ. Vì thế, dựa vào âm vực hoàn toàn có thể thỏa mãn và đáp ứng tốt yêu cầu đó.  Rất mong nhận được sự ủng hộ của các bạn yêu thơ. 


MẤY ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT KHI ÁP DỤNG THEO THANH LUẬT MỚI – TÂN THANH ĐIỆU.

VẦN (VẬN) – CƠ BẢN NHƯ CHÍNH THỂ THEO BẰNG TRẮC
CÁCH GIEO VẦN:
Có 5 vần gieo ở cuối câu đầu và các câu chẵn, nghĩa là cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.
Suốt bài thơ chỉ gieo một vần (một từ) gọi là độc vận.
LẠC VẬN VÀ CƯỠNG ÁP:
Làm thơ phải hiệp vận cho đúng. Nếu gieo sai như CÂY đi với HOA là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng thì gọi là cưỡng áp. Hai cách này đều không được cả.
2. ĐỐI - – CƠ BẢN NHƯ CHÍNH THỂ THEO BẰNG TRẮC
Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú, trừ hai câu đầu, hai câu cuối, còn bốn câu giữa cứ hai câu đối nhau: 3 với 4; 5 với 6 (sẽ đề cập chi tiết hơn ở phần sau)
3. LUẬT
Là cách sắp đặt tiếng cao và tiếng thấp trong các câu của bài thơ. Luật nhất định buộc người làm thơ phải theo đúng mà đặt. Luật được chia ra LUẬT CAO VÀ LUẬT THẤP
LUẬT THẤP: Câu đầu tiên của bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng thấp
a. Luật thấp vần thấp:
Câu 1: T T C C C T T (v)
Câu 2: C C T T C C T (v)
Câu 3: C C T T T C C
Câu 4: T T C C C T T (v)
Câu 5: T T C C T T C
Câu 6: C C T T C C T (v)
Câu 7: C C T T T C C
Câu 8: T T C C C T T (v)
b. Luật thấp vần cao
Câu 1: T T C C T T C (v)
Câu 2: C C T T T C C (v)
Câu 3: C C T T C C T
Câu 4: T T C C T T C (v)
Câu 5: T T C C C T T
Câu 6: C C T T T C C (v)
Câu 7: C C T T C C T
Câu 8: T T C C T T C (v)
LUẬT CAO: Câu đầu tiên của bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng hai tiếng cao
a . Luật cao vần thấp:
Câu 1: C C T T C C T (v)
Câu 2: T T C C C T T (v)
Câu 3: T T C C T T C
Câu 4: C C T T C C T (v)
Câu 5: C C T T T C C
Câu 6: T T C C C T T (v)
Câu 7: T T C C T T C
Câu 8: C C T T C C T (v)
b. Luật cao vần cao
Câu 1: C C T T T C C (v)
Câu 2: T T C C T T C (v)
Câu 3: T T C C C T T
Câu 4: C C T T T C C (v)
Câu 5: C C T T C C T
Câu 6: T T C C T T C (v)
Câu 7: T T C C C T T
Câu 8: C C T T T C C (v)
(C: cao, T: thấp, v: vần, ngoài việc tuân theo luật cao – thấp, còn phải tuân theo vần)
4. THẤT LUẬT
Trong một câu thơ, theo "phân minh" chữ nào đáng là thấp mà đặt tiếng cao, hoặc đáng cao mà đặt tiếng thấp, thì gọi là thất luật (sai luật thơ), không được.
5. NIÊM
Niêm nghĩa đen là dính với nhau, là sự liên lạc âm luật của hai câu thơ trong một bài thơ Đường luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào hai chữ đầu câu cùng theo một luật, hoặc cùng là thấp, hoặc cùng là cao, thành ra thấp niêm với thấp, cao niêm với cao. Trong một bài thơ bát cú, những câu sau đây niêm với nhau.
Ví dụ: Một bài thơ luật thấp vần thấp:
Câu 1 niêm với 8:
T T C C C T T
Câu 2 niêm với 3:
C C T T C C T
C C T T T C C
Câu 4 niêm với 5:
T T C C C T T
T T C C T T C
Câu 6 niêm với 7:
C C T T C C T
C C T T T C C
Câu 8 niêm với 1:
T T C C C T T
6. THẤT NIÊM
Trong một bài thơ, nếu cả hai câu thơ đặt sai luật, như đang bắt đầu thấp thấp đặt làm cao cao hoặc trái lại thế, làm cho tất cả câu thơ trong bài không niêm với nhau thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), không được.
7. BẤT LUẬN VÀ PHÂN MINH
Để cho khỏi gò bó, dễ sử dụng từ ngữ, trong bài thơ, chữ thứ 1, 3, 5 không cần theo đúng luật cao – thấp: Nhất tam ngũ bất luận (tuy nhiên để bài thơ có âm điệu hay thì chữ thứ 5 không nên theo lệ bất luận).
Những chữ thứ 2, 4, 6 buộc phải tuân theo đúng luật cao – thấp: Nhị tứ lục phân minh.
8. KHỔ ĐỘC
Nghĩa là khó đọc, đọc lên trúc trắc không được êm tai. Tuy theo lệ "bất luận" có thể thay đổi mấy chữ trong câu thơ, nhưng đáng cao mà đổi ra thấp thì bao giờ cũng được, chứ đáng thấp mà đổi ra cao thì trong vài trường hợp, sự thay đổi ấy làm cho bài thơ khổ độc.
Những trường hợp ấy là: Chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đáng là thấp mà đổi ra cao là khổ độc .
9. CÁC BỘ PHẬN TRONG BÀI THƠ
Một bài thơ bát cú giống như bức tranh. Trong cái khung nhất định 8 câu 56 chữ, làm sao vẽ thành một bức tranh hoàn toàn, hình dung được ngoại cảnh của tạo vật hay nội cảnh của tâm giới. Bởi vậy phải sắp đặt các bộ phận cho khéo. Có bốn bộ phận là: Đề, Thực, Luận và Kết.
1- Đề thì có Phá đề (câu 1) là câu mở bài nói lung động cả ý nghĩa trong bài và Thừa đề (câu 2) là câu nối với câu phá mà nói đến đầu bài.
2- Thực, hay Trạng (câu 3-4): là giải thích đầu bài cho rõ ràng. Nếu là thơ tả cảnh thì chọn các cảnh sắc xinh đẹp đặc biệt mà mô tả ra, nếu là thơ tả tình thì đem các tình tự giãi bày ra; nếu là thơ vịnh sử thì lấy công trạng của người mình muốn vịnh mà kể ra.
3- Luận (câu 5-6): là bàn bạc. Nếu là thơ tả cảnh thì nói cảnh ấy xinh đẹp như thế nào; vịnh sử thì hoặc khen hoặc chê, hoặc so sánh người ấy, việc ấy với người khác việc khác.
4- Kết (câu 7-8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại cho mạnh mẽ rắn rỏi, trong đó câu số 7 là câu Thúc ,hay Chuyển và câu 8 là câu Hợp.
**********************
II- PHÉP ĐỐI
Câu đối là các câu văn đi song song với nhau từng cặp.
Trong bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, bắt buộc phải có đối với nhau giữa các câu 3 và 4, câu 5 và 6.
Muốn câu đối chỉnh và cân, phép đối cần phải hội đủ 3 điều kiện:
- Đối thanh
- Đối ý
- Đối từ loại
1. ĐỐI THANH
-Bảng luật thấp:
T T C C T T C
C C T T C C T
-Bảng luật cao:
C C T T T C C
T T C C C T T
Chí ít là các chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật cao – thấp.
2. ĐỐI Ý
Ý câu trên và ý câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau.
3. ĐỐI TỪ LOẠI
Danh từ >< Danh từ
Danh từ riêng >< Danh từ riêng.
Danh từ chung >< Danh từ chung
Động từ >< Động từ.
Trạng từ >< Trạng từ.
Tính từ >< Tính từ.
Tính từ có nhiều loại, nên:
Gợi hình >< Gợi hình
Màu sắc >< Màu sắc
Mùi vị >< Mùi vị
Tượng thanh >< Tượng thanh
Số lượng >< Số lượng
Mùa tiết >< Mùa tiết
Phương hướng >< Phương hướng
Từ kép >< Từ kép
Từ đơn >< Từ đơn
Thành ngữ >< Thành ngữ
Biệt ngữ >< Biệt ngữ
Hán Việt >< Hán Việt
Nôm (thuần Việt) >< Nôm (thuần Việt)...
2 cặp đối trong thơ Đường luật là tinh hoa của bài thơ. Nó là đặc điểm chính để nhận biết một bài thơ Đường luật. Hai cặp đối này còn giúp đo lường trình độ làm thơ Đường luật của tác giả.
Một bài thơ thất ngôn bát cú mà không có 2 cặp đối ở Thực và Luận thì không phải là một bài thơ Đường luật.

Chú thích hình ảnh:
Hình 1 (H1) – Bảng thanh điệu tiếng Việt phân loại theo âm vực cao – thấp
Hình 2 (H2) – Thanh điệu trong tiếng Việt
Hình 3 (H3) – Tóm tắt toàn bộ thanh điệu tiếng Việt.


ẢnhẢnh
Ảnh
2015-01-23
3 ảnh - Xem album

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

NGÀY EM ĐẾN (MỘT ĐỜI THEO EM!)

Ngày em đến,
Gió miên man trên tóc mây
Nắng hây hây đôi má hồng
Ngực phập phồng sau làn áo
Môi hé nụ đào tươi,
Chúm chím như gọi, như mời,
Hồn tôi say đắm chơi vơi…
Dẫu dời non lấp bể,
Cũng nguyện một đời theo em!

Đất trời chao đảo ngã nghiêng
Em ơi xin chớ muộn phiền, đắn đo:
Đã yêu thì cứ phải liều
Đã thương thì cứ phải chiều,...
Em ơi./.
 
14/05/2014.
Ảnh

Nghe Tiếng Hạt Trở Mình



Nghe trong gió 
Lời thì thầm
Của những đôi tình nhân
Vui ái ân.
Thấy sắc màu
Đang biến đổi
Khi mặt trời chiếu rọi
Quét tia nắng vào khoảng không.
Màu sắc, âm thanh…
Trộn lẫn và phân tranh
Hỗn độn, đen trắng
Hoàng hôn nhạt ánh nắng
Đêm chuyển màu
Tối om.
Sương đêm tắm mát 
Không gian và mặt đất
Trước bình minh
Nghe tiếng hạt trở mình
Mầm non tách vỏ
Đội đất
Nhô lên
Đón tia nắng đầu tiên
Rạng ngời.
Một ngày mới bắt đầu
Sự sống nhiệm màu mãi sinh sôi…!

07/03/2014.

(Thử nghiệm bị bỏ quên khá lâu, nay mới tìm lại được và nhận thấy có nhiều thú vị, dẫu không cầu kỳ nhưng chứa đựng đầy đủ cách tân, một đường biên rộng rãi cho sáng tạo không giới hạn.)
Ảnh st

BÌNH THƠ: TIẾNG THU (Lưu Trọng Lư)

"Em không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức? 
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ? 

Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô?"

LỜI BÌNH: 

Tiếng thu - đó là tất cả những gì LTL muốn nhắn gửi, bài này và hầu hết những bài thơ mới đều như vậy, thi sĩ không ẩn ý như nhiều người vẫn tưởng. Có điều, đây là tiếng - âm thanh của sự suy tưởng, cảm nhận về nội tâm, về thế giới bên trong của tạo vật, con người, của mùa thu. Hay nói cách khác, đó là sự miêu tả, thể hiện những thanh âm sâu kín, thầm lặng nhưng rất tha thiết, rạo rực của thế giới nội tâm, của linh hồn thiên nhiên và con người, chủ thể hiện hữu của mùa thu. 

Ở bài thơ này, tất thảy những hình ảnh, thi tứ quen thuộc trong thơ ca về mùa thu đều được tác giả đưa vào tác phẩm. Và bằng sự tinh tế, nhà thơ cảm nhận nó ở góc độ là những âm thanh bên trong, đối lập nó với cái cảnh sắc vốn mơ hồ, tĩnh lặng, chậm rãi, đượm u buồn, của mùa thu muôn thuở (trong thơ ca lẫn đời sống) mà chúng ta vẫn thường thấy, thường gặp. Rồi thổi vào trong cảnh sắc ấy một sức sống riêng, độc đáo, sắc thái đó chỉ có ở Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư.

Cần lưu ý về câu hỏi ở đây, các câu hỏi là cái cớ, cái để khơi nguồn, để từ đó tác giả diễn đạt điều tác giả nghĩ, lý giải về con người, cảnh sắc mùa thu. Hỏi rồi trả lời, trả lời bằng các câu hỏi tu từ, tất thảy thể hiện quá trình khám phá thế giới trong mùa thu của tác giả, và ông đem chia sẻ điều đó với chúng ta qua "Tiếng Thu".

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đầy sức gợi, thâu tóm toàn bộ cấu tứ của tác phẩm. Rừng chiều lá vàng rơi khắp lối, những thanh âm xào xạc của lá khô trong khung cảnh tĩnh vắng khiến chú nai vàng ngơ ngác. Sự đối lập rất rõ ràng, và tất nhiên, việc thể hiện động thái của con nai vàng là điểm nhấn của khung cảnh này. Con nai hoàn toàn "vô tư", "điềm nhiên" trước những biến đổi của cảnh vật xung quanh, tác giả thể hiện điều đó qua các từ "ngơ ngác", "đạp trên lá vàng khô". Và nó góp phần cùng với tiếng lá khô xào xạc xua tan đi cái tĩnh lặng, vắng vẻ của rừng chiều.

Thiên nhiên hòa hợp bằng ý thơ độc đáo: "đạp trên lá vàng khô". Vậy là, từ sự ngơ ngác, từ tiếng lá xào xạc, chú nai lại tạo nên những thanh âm trong tâm tưởng của người đọc khi nó "đạp trên lá khô". Ý thơ quá tài tình. Hình ảnh cuối vì thế dẫu không có từ nào thể hiện âm thanh nhưng vẫn tạo nên thanh âm vang vọng trong lòng người đọc. Đó là cái vi diệu của thơ. Cảm ơn người nghệ sĩ ngôn từ Lưu Trọng Lư!

Với cấu tứ hai phần rõ rệt của bài thơ, thì nội dung trọng tâm của tác phẩm nằm ở ba câu cuối của phần đầu, những câu thơ còn lại và cả phần sau chỉ để nêu bật hình ảnh, nội dung trung tâm đó: Cái "rạo rực" xuất phát từ nỗi nhớ mong người chồng chiến trận trong lòng người vợ đang cô đơn chờ đợi. Nỗi nhớ, niềm khát khao của người vợ là linh hồn, sức sống của bài thơ, nó là nỗi niềm đọng lại giữa vô vàn những "thổn thức" của thế giới dưới vầng trăng thu.

Tương ứng với mỗi phần của bài thơ là một bức tranh, cả hai bức tranh đều lấy mùa thu làm bối cảnh chính, và chúng ta có một bức tranh về con người và một bức tranh về khung cảnh thiên nhiên, rừng chiều. Mỗi bức tranh thể hiện, phản ánh một quy luật: một của cuộc sống - con người, một của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên, rừng chiều phản ánh cái quy luật biến đổi của thiên nhiên theo sự thay đổi của đất trời - thời thiết, mùa. Quy luật này lặp đi lặp lại đều đặn theo vòng quay thời gian, yếu tố chủ thể không tồn tại, đến chú nai cũng "ngơ ngác" vì nó "không hiểu", "không biết" tại sao lá lại vàng, lại rơi và kêu xào xạc khi thu về. Tức là sự biến đổi của cảnh vật, thiên nhiên, đất trời là sự mặc nhiên và con nai cũng vậy, là một sinh vật không hề có một biểu lộ cảm xúc nào. Nó "ngơ ngác" hay con người - thi sĩ - "ngơ ngác" vì cái sự điềm nhiên, vô tư của nó?! 

Trong khi đó, bức tranh thu thứ nhất, bức tranh về con người lại phản ánh, biểu hiện cái quy luật của tâm hồn, quy luật tình cảm, quy luật tình người. Quy luật đó thể hiện tính chủ thể, là quy luật nội tâm, nó khác với quy luật của thiên nhiên, đất trời. Quy luật đó cũng chính là cái cao quý, đáng quý nhất của con người.

Cái tạo nên sự thống nhất, tính chỉnh thể hay sự đồng điệu của hai bức tranh trong bài thơ chính là ở hai hình ảnh tương đồng: người thiếu phụ cô đơn và con nai lạc lõng một mình giữa rừng chiều đang trút lá. Cấu tứ của bài thơ thật tuyệt, đây cũng chính là một thành công nữa trên cả hai phương diện nghệ thuật lẫn nội dung của bài thơ./.
Ảnh

CHỐN HẸN XƯA



Tôi tìm về chốn hẹn hò xưa
Trải bao dâu bể, mấy nắng mưa
Cảnh xưa thay đổi, người xưa vắng
Còn lại mình tôi với gió trăng./.
30/07/2013.
Ảnh

Nỗi Nhớ Hư Không



Gọi em là nỗi nhớ
Khi ký ức tìm về
Giữa bộn bề cuộc sống
Em chỉ là hư không.

Giấc mộng đêm hôm qua
Tôi thức tỉnh vỡ òa
Những khao khát chìm sâu
Đã hiện hình tất cả.

Này đây là ước muốn,
Kìa đó là đam mê,
Thân đau đớn ê chề
Nhìn hồn đang thoát xác.

Rời bỏ niềm hoan lạc
Hồn sung sướng reo vang
Từ nay chốn địa đàng
Hồn theo gió mây ngàn.

Ô này thân với hồn
Hai người hay là một?
Hồn ơi chớ kiêu hãnh
Thân xác đang chờ anh!./.
15/02/2014.
Ảnh
Ảnh
Scrapbook Photos
1 ảnh - Xem album

GIÃ TỪ TUỔI HỌC TRÒ

(TÂM SỰ CỦA CÔ BÉ VỪA HỌC HẾT LỚP 12)

Cháy rực khoảng trời, sắc phượng đỏ tươi
Theo làn gió, đốm lửa rơi tơi tả.
Em tôi qua, khung trời ngày nắng hạ,
Nhặt bông hoa phượng, tiễn mùa hè xa…

Gom hết ước mơ của thời vụng dại,
Cái hôn đầu, lặng thầm… “thời con gái”,
Mai này xa biết có còn gặp lại,…
Em gửi hết vào lưu bút đầu tay.

Biết ai có nhớ,… hay là sẽ quên,
Tuổi hoa mộng, êm đềm thuở học sinh?
Xa mái trường vấn vương nhiều kỷ niệm,
Để kiếm tìm, hành trang cho tương lai.

Rồi ngày mai, sau kỳ thi lớp 12
Ai bỏ giấc mơ, ai vào đại học?!
Cánh cửa cuộc đời mỗi người một hướng,
Còn nhớ trường, nhớ cô bạn dễ thương?!

Thao thức suốt đêm, viết dòng lưu niệm.
Lời thầy cô vỗ về trong tiềm thức,
Những dặn dò, chứa bao điều trăn trở!
Bởi học trò hãy còn lắm dại khờ…

Em nhớ quá những ngày trời mưa,
Học trò tinh nghịch, chơi trò té nước
Áo ướt sũng, vẫn thì thầm điều ước
Trời mưa mãi, để chơi hoài trò chơi.

Ôi nhớ lắm cái lạnh đầu đông,
Khi bên ai, cảm nhận làn hơi ấm,
Cái vỗ vai và mắt ai trìu mến,
Em nhận ra: tình yêu thật dịu êm!

Rồi hè đến, tiếng ve như dục giã,
Ngày đuổi ngày, thời gian trôi hối hả.
Lũ học trò, ngẫn ngơ nhìn phượng đỏ
Cháy rực trời, giã từ tuổi thơ ơi!

Mùa chia ly, nói gì hỡi cô bé?
Hay để giành cho ký ức đầy thêm,
Vì kỷ niệm là món quà quý giá,
Cho mỗi người trên bước đường ngày mai./.

(Xuân hè 2000 - bài này viết từ khá lâu, lời và ý tứ cũng có vẻ không còn hợp lắm với các bạn thời này, thôi thì chút kỷ niệm thời áo trắng mới chập chững tập làm thơ mời cả nhà đọc ...) 
03/06/2014.


Ảnh
Ảnh
Scrapbook Photos
1 ảnh - Xem album