Bình Luận Văn Học:Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, với chủ đề “Nâng cao chất lượng, hiệu quả LLPB văn học” đã diễn ra đúng vào thời điểm lĩnh vực văn học nói chung, LLPB văn học nói riêng, cần có một cú hích để thực sự thoát ra khỏi sự trì trệ, bế tắc, đã diễn ra trong quãng ngắn thời gian vừa qua.
1. Giao thời và lỗi “Y2K” của LLPB văn học Việt
Đề cập tới đời sống văn học thời gian gần đây không ít học giả, nhà nghiên cứu bày tỏ thái độ đồng tình với ý kiến cho rằng: LLPB văn học nước nhà đang lâm vào khủng hoảng. Dấu hiệu của khủng hoảng khởi phát từ mấy năm cuối của thế kỷ XX và duy trì cho tới hơn một thập niên đầu thế kỷ XXI. Xét theo hệ quy chiếu thời gian, dễ dàng nhận thấy đây là thời điểm giao thời. Thế kỷ XX khép lại với rất nhiều những chiến công, kỳ tích của hai cuộc chiến tranh vệ quốc và thống nhất nước nhà. Và điều đó tạo thành những dấu ấn lấp lánh trong tác phẩm văn học lẫn nghiên cứu, LLPB. Những thành tựu có được trong văn học nói chung đều ghi nhận mối quan hệ thân thuộc với hiện thực sinh động đó của dân tộc.
Đến thập niên 90 của thế kỷ XX, khi những con người làm nên kỳ tích, lớp đã lui vào quá vãng, lớp đã đến và qua cái độ chín trong sáng tạo và tìm tòi, thì lớp thế hệ trưởng thành sau chiến tranh, nói cho đúng là sau thời kỳ cải cách mở cửa, 1986, buộc phải đối diện với một trạng thái xã hội mới, với bầu sinh quyển đã khác hẳn so với trước đây. LLPB văn học vì thế dễ trở nên lạc lõng, lỗi thời, nếu vẫn theo cái nếp cũ. Nhà nghiên cứu, lý luận, không đến nỗi bơ vơ, nhưng cũng tự thấy thiếu một lối về với đông đảo nhân sinh, nghệ sĩ. Đó cũng là lúc khoảng lặng xâm chiếm, dấu hiệu bế tắc, những hạn chế hiện rõ. Nói thẳng như GS.TS. Trần Đình Sử là: lý luận văn học đang rơi vào khủng hoảng!
“Nhưng rồi Thời Đổi mới đã đến, đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy xã hội và kinh tế, thì lí luận văn học uy phong lẫm liệt một thời tự tan rã. Các khái niệm có vai trò trụ cột, quy phạm của văn học một thời như phản ánh, chức năng, nguồn gốc văn nghệ, tính giai cấp, tính nhân dân, văn nghệ phục vụ chính trị, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, điển hình, tính chân thật, tính đơn nghĩa… bị hoài nghi, lí luận văn học bị làm rỗng nội dung và mất dần hiệu lực. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu tạo nên cái mà không ít người gọi là “khủng hoảng lí luận”” (1).
Là một hình thái đặc thù, bởi vậy, khủng hoảng lý luận xét về khái niệm, nội hàm và các nguyên nhân dẫn phát đều có những điểm riếng biệt. Điều đó được GS.TS. Trần Đình Sử lý giải: “Khủng hoảng là gì? Là trạng thái quá độ nặng nề từ một hình thái lí luận này chuyển sang hình thái lí luận khác. Lí luận cũ với hệ giá trị cũ đã mất hiệu lực, nhưng chưa mất đi thật sự, lí luận mới đã được nối kết, nhưng chưa được hình thành hẳn. Trạng thái bây giờ là nửa nọ, nửa kia, cũ mới đan xen. Với trào lưu “Cởi trói”, sáng tác, phê bình văn học bùng lên như con ngựa được tháo cương, tung vó phi ra bốn phía, dường như viễn cảnh được mở rộng. Nhưng đối với không ít người thì lại lo thiếu vắng một thứ lí luận đủ sức trói buộc, định hướng chặt chẽ con ngựa ấy. Những câu hỏi lớn day dứt nhiều người: Văn học sẽ đi về đâu? Nhiều người mơ ước làm thế nào để có lại một lí luận văn học quyền uy như trước. Ai sẽ là người trọng tài văn học? Xuất phát từ những tiêu chí nào để nhìn nhận văn học hôm nay? Hầu hết tác phẩm đều có thể đánh giá trái ngược nhau. Đó là mặt thứ hai của cơn khủng hoảng lí luận” (2).
Còn một nguyên do cơ bản nữa của khủng hoảng LLVH hiện thời là “lí luận văn học mác xít của ta thuộc dòng lí luận cổ điển thế kỉ XIX trở về trước, chủ yếu quan tâm các vấn đề vĩ mô mà hầu như không quan tâm các phương diện vi mô như ngôn ngữ, văn bản, tiếp nhận… Theo chúng tôi, sự khủng hoảng của nó đánh dấu lí luận văn học hình thái cũ đã lỗi thời, một hình thái lí luận văn học mới, bao hàm cả phương diện vĩ mô lẫn vi mô, phù hợp thời đại mới và trình độ tư duy mới sẽ phải được xây dựng mới” (3).
Rõ ràng, yếu tố giao thời khi thế kỷ XX khép lại và thế kỷ XXI mở ra đã trở thành một nguyên do chính yếu tạo nên trạng thái nói trên của lý luận văn học. Và như một phép kéo theo tất yếu trong logic học, khi nền tảng, cơ sở rơi vào khủng hoảng – tức lý luận, thì phê bình đến lượt mình cũng chịu chung số phận. Ở đây cần phải nói thêm về yếu tố giao thời. Cần hiểu giao thời không đơn thuần về mặt thời gian trôi chảy theo trật tự tuyến tính, mà đó còn là chuyển giao thế hệ, chuyển giao giữa hình thái lý luận cũ và mới. Đó còn là sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, còn là sự giao lưu mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa với những thuộc tính mới trước đây chưa từng có. Tư duy mới, nếp nghĩ mới, khung kiến thức mới, bầu sinh quyển mới… Tất cả tạo nên một thực tế đòi hỏi thay đổi, và một cuộc chuyển giao thực sự trong lý luận phê bình văn học đang diễn ra một cách từ từ, từng ít một ở bên trong. Không ồn ào, dữ dội, mà lặng lẽ, thâm trầm, tiếp thu và kiến tạo. Đi cùng là những chủ thể mới đang xuất hiện, đó là yếu tố tiên quyết để cuộc chuyển giao diễn ra suôn sẽ và đi tới hoàn tất. Đó cũng là điều mà những người như GS.TS. Trần Đình Sử mong đợi, trăn trở và thể hiện trong bài viết của mình.
Năm 1999, trước thời điểm bước sang năm 2000, thế giới bồn chồn chờ đợi. Sự kiện được quan tâm nhiều nhất, thu hút cả những người không có chút mảy may hiểu biết về công nghệ thông tin ở thời điểm đó, chính là “lỗi Y2K” của hệ thống lịch và thời gian được cài đặt trong bộ nhớ máy tính. Sẽ nguy hại biết bao khi ở thời điểm 0 giờ của ngày cuối cùng năm 1999, tức thời khắc đầu tiên bước sang năm 2000, đồng hồ máy tính vẫn chạy như thường nhưng bộ đếm được BIOS trả về 00, tương ứng với năm 1900. Vấn đề này là do máy tính nhận dạng ngày 01/01/00 (ngày 1 tháng 1 năm 2000) như là ngày 1 tháng 1 năm 1900. Toàn bộ dữ liệu của tất cả các lĩnh vực sẽ sai lệch và dẫn tới lỗi hệ thống. Các đại gia ngành công nghệ thông tin trên toàn thế giới ráo riết chuẩn bị các phương án để khắc phục sự cố này, thiệt hại do lỗi “thiên niên kỷ” “Y2K” cũng khá lớn. Và đó là một bài học về sự chuẩn bị cho những thay đổi ở thời khắc chuyển giao, dù nó chỉ đơn thuần là thay đổi về bộ đếm thời gian, ngày tháng. Có thể hiểu LLPB văn học Việt hiện nay đang gặp phải một lỗi gần như vậy, tất nhiên, nó có những đặc điểm hoàn toàn khác do lĩnh vực chuyên môn quy định.
2. Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ III: Bản tổng kết hoàn tất cho quá khứ và hiện tại?. Những ý kiến hoạch định cho tương lai vẫn còn mờ nhạt, chấm phá, chưa hiện hình một phác thảo hoàn chỉnh.
Theo dõi nội dung được cập nhật theo từng phiên làm việc của Hội nghị, những điểm chính yếu được rút ra từ những báo cáo tham luận đã bao quát được thực trạng LLPB văn học nước nhà. Thay vì làm cái việc điểm báo cáo tham luận, tôi xin lược dẫn phần kết luận để chúng ta thấy được những nội dung chính của Hội nghị.
“Nhà thơ Hữu Thỉnh tổng kết Hội nghị: “(…) với nhiều kênh tiếp cận, LLPB đã theo sát sáng tác, kịp thời động viên tiếng nói mới, vừa lên tiếng trước những hiện tượng còn chưa tốt, chủ động nghiên cứu, công bố những công trình công phu được ghi nhận; công tác đầu tư có cải tiến (số lượng nhiều, chất lượng tốt); một số công trình nghiên cứu về văn hóa dân tộc đã được xuất bản; nhiều nhà sáng tác tham gia làm công tác LLPB và được công nhận; không khí sinh hoạt phê bình cởi mở, dân chủ, trân trọng những thành quả lao động sáng tạo, đồng thời có cách xử lí hợp lý với từng tình huống trong đời sống văn học.(…). Có nhiều tài năng LLPB mới đã xuất hiện.
Bên cạnh đó còn có những hạn chế: hiện nay chúng ta đang thiếu bàn tay “nhạc trưởng” để hoạch định, điều hành các cơ quan chủ quản của công tác LLPB văn học; phê bình không bao quát hết thực tiễn sáng tác; có một số ý kiến lạc chuẩn chưa bị phê phán đúng mức. Lý luận được tiếp thu đa chiều nhưng chưa được thảo luận, tiếp thu đến nơi đến chốn; (…). Quan niệm phê bình không đi vào thực chất.
Hội nghị LLPB văn học lần thứ III này đã thể hiện tinh thần thiện chí, trách nhiệm chung, mong muốn LLPB là cơ sở cho nền văn học phát triển; thảo luận dân chủ trên cơ sở dòng chảy chính, từ đó có nhiều ý kiến đa dạng, phong phú (…). Hội nghị đã đặt LLPB trong bình diện văn hóa nói chung. Hội nghị đã kiến nghị với Hội Nhà văn VN một hệ thống giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả LLPB văn học theo hướng chuyên nghiệp hóa. Cần có một số biện pháp: mở rộng khung lý thuyết; tăng cường đối thoại; xây dựng hệ giá trị mới; tổ chức biên soạn nhiều công trình có giá trị (…)” (4).
Đánh giá tổng kết Hội nghị đã bao quát và đề cập tới những vấn đề cốt yếu của LLPB hiện tại, có thể xem như “lịch sử” đã hoàn tất, vấn đề còn lại là những hoạch định, định hướng cho tương lai, cho sự phát triển của LLPBVH thế kỷ XXI, dù chúng ta đã bước vào thế kỳ này hơn 10 năm. Bước ngoặt hay đơn giản chỉ là sự chuyển tiếp và giao thời, điều đó phụ thuộc vào cách nhìn nhận và đánh giá thực trạng lẫn những biến chuyển trong thời gian tới của LLPB. Ở Hội nghị này, vấn đề đó còn bỏ ngỏ. Đúng hơn là chưa thừa nhận vấn đề khủng hoảng theo như cách nhìn nhận của GS.TS Trần Đình Sử và những người cùng quan điểm với ông. Do đó, phương hướng của LLPBVH được đề xuất trên cơ sở khắc phục hạn chế, phát huy những mặt tích cực, không thực sự triệt để như ý kiến của GS.TS. Trần Đình Sử đối với vấn đề này.
Dẫu chưa gặp gỡ lắm về mặt quan điểm, nhưng mấy dòng kết luận dưới đây của GS.TS. Trần ĐÌnh Sử về lối thoát cho khủng hoảng LLVH khá thống nhất và làm rõ hơn, bổ sung thêm cho phần kết luận của Hội nghị đối với vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả và phát triển LLPB theo hướng chuyên nghiệp hóa, phù hợp với hiện thực mới. Đó là: “Để xây dựng một nền lí luận văn học theo hình thái mới và để cho lí luận văn học Việt Nam tiến kịp bước tiến chung của thời đại, có tác dụng thúc đẩy văn học và phê bình văn học dân tộc tiến bộ, hơn lúc nào hết chúng ta cần tạo điều kiện giao lưu rộng rãi về lí luận văn học, tạo điều kiện cho những người làm nghề lí luận được học tập, sáng tạo lí luận theo thiên hướng của mình, được phát biểu ý kiến của mình mà không lo ngại về các cuộc “tranh luận” trá hình mà thực chất là sự thi hành quyền lực một cách tinh vi. Lí luận văn học phải do những nhà chuyên môn tìm tòi nghiên cứu. Cần đào tạo và tôn trọng các chuyên gia. Chúng tôi luôn nhớ đến các chính sách nông nghiệp đã từng biến nước ta từ một nước thiếu ăn thành một nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Lí luận văn học sẽ có những quy luật khác với sản xuất nông nghiệp, song vẫn khát khao những điều kiện giúp phát huy tiềm năng vốn có, thúc đẩy chúng ta sớm bước ra khỏi cuộc khủng hoảng lí luận văn học hiện tại, mà một trong những đòi hỏi hàng đầu là xuất bản và giới thiệu những cái mới, cùng với nó là những tranh luận tự do, xây dựng những nhân cách độc lập trong giới nghiên cứu lí luận, xoá bỏ những nô lệ về tư tưởng ” (5).
10/2013
Chú thích:
1, 2, 3, 5: Trần Đình Sử: Lí luận văn học khủng hoảng và lối thoát, nguồn:
trandinhsu.wordpress.com.
4: Trích tổng kết ở phiên bế mạc Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ III, nguồn:
vanvn.net.
(Ảnh minh họa - ST)